largeer

Mây lang thang

Mây lang thang

2021-09-27 17:14:00

‘Bùng dịch bị xử lý, lãnh đạo đứng đầu họ sẽ khóa cứng thôi’

Việc chuyển đổi mô hình chống dịch thay đổi tư duy từ “Zero Covid-19” sang “sống chung với dịch”, theo các chuyên gia, là vấn đề quan trọng nhất hiện nay. Chính vì vậy TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng tâm lý sợ trách nhiệm khi có dịch COVID-19, lãnh đạo sẽ 'khóa cứng' địa phương.

Theo VTC thông tin, sáng 27/9, đóng góp ý kiến tại Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế - xã hội, TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, điều quan trọng hiện nay của nước ta là mô hình chống dịch. Mô hình chống dịch năm 2020 kéo dài, đây là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới kinh tế - xã hội. Vừa qua, Thủ tướng nói chuyển từ không có COVID-19 sang thích ứng an toàn, thúc đẩy phát triển kinh tế.

Theo ông Dũng, chúng ta đã áp đặt mô hình "zero COVID" kéo dài, mất quá nhiều thời gian phong tỏa cứng đất nước. Thực chất việc phong tỏa cứng thì dài nhất chỉ nên 7 ngày, cùng lắm 10 ngày.

Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế - xã hội do Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Kinh tế tổ chức ngày 27.9 GIA HÂN

Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế - xã hội do Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Kinh tế tổ chức ngày 27.9 GIA HÂN

"Không thể phong tỏa cứng đất nước nửa năm trời khiến đổ vỡ hết tất cả. Chính vì vậy, việc quan trọng nhất hiện nay là chuyển đổi mô hình chống dịch", ông Dũng nêu ý kiến.

Mới đây, Thủ tướng nói về chuyển đổi mô hình chống dịch, tức là thích ứng an toàn với COVID-19. Dù Thủ tướng quan điểm như vậy nhưng các địa phương vẫn thực hiện khác nhau, mỗi nơi mỗi kiểu.

“Áp đặt để bùng phát dịch bệnh, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm như một vòng kim-cô đối với lãnh đạo các địa phương. Do đó, khi có dịch, lãnh đạo tỉnh sẽ 'khóa cứng' địa phương, dẫn đến đổ vỡ hoạt động kinh tế”, ông Dũng nói.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cũng cho rằng, một loạt chính sách thời gian qua đã tạo ra khoản "tô" khổng lồ. Chẳng hạn TP.HCM khóa cứng không cho chợ truyền thống, chợ dân sinh, chợ đầu mối mở; chỉ cho siêu thị hoạt động. Do đó, khoản thu từ siêu thị nhận được rất lớn. Những khoản "tô" đó có nhiều ở tỉnh, tất cả đánh vào người dân khó khăn.

Theo thống kê gần đây, khoảng 29,3 triệu người không có việc làm. Khi chợ truyền thống đóng cửa, nhiều người dân buộc phải đi siêu thị để mua các nhu yếu phẩn. Người nghèo càng khó khăn. Bên cạnh đó, khi chợ truyền thống đóng cửa cũng kéo theo việc những người sản xuất nhỏ lẻ không thể tiếp cận được siêu thị. Số lượng người bị ảnh hưởng do đóng cửa chợ dân sinh, truyền thống là rất lớn.

“Nếu chuyển đổi mô hình thì phải cho mở cửa chợ truyền thống, đầu mối sẽ giảm bớt gánh nặng cho hàng triệu người. Phải có sự thống nhất chứ không thể như cách làm hiện nay, mỗi tỉnh mỗi kiểu thì đứt gãy hết chuỗi cung ứng”, ông Dũng nói.

Liên quan đến đề xuất áp giá sàn vé máy bay, TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, quan điểm áp giá vé máy bay như vậy là không công bằng.

“Hãng 3 sao phải bán giá như 5 sao, vậy thì ai mua hãng 3 sao. Áp như vậy là giết chết hãng hàng không. Chính sách khi ban hành phải công bằng, tạo ra bình đẳng chứ không tạo ra bất hợp lý, khoản "tô" bất hợp lý cho nền kinh tế”, ông Dũng nêu quan điểm.

Cho rằng, phân cấp, phân quyền là quan trọng, nhưng theo ông Dũng, ở thời điểm này, phải cần mệnh lệnh từ Trung ương. "Còn mỗi tỉnh mỗi kiểu, tỉnh đòi loại giấy này, tỉnh đòi loại giấy khác; tỉnh cho qua, tỉnh không thì làm sao kinh tế không đổ vỡ được", ông Dũng nêu ý kiến.

Về vấn đề việc làm, ông Nguyễn Sĩ Dũng nêu rõ, nghịch lý lao động hiện nay là nơi thiếu cứ thiếu, nơi thừa cứ thừa. Ở các khu công nghiệp TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai người ta phải chạy về, chưa biết bao giờ trở lại. Chuỗi cung ứng toàn cầu không thể đứt gãy. Trong khi cầu của thế giới đang quay lại, nếu không có chính sách để lôi kéo lao động trở lại sẽ khiến sản xuất chúng ta gặp nhiều khó khăn.

Một số vấn đề cần được đưa ra các phiên giải trình, theo ông Dũng là chính sách trong phòng chống dịch, sắp tới chuyển đổi thì chuyển đổi thế nào? Tiêm vaccine thế nào, giãn cách thế nào? Các Ủy ban phải phối hợp với các bộ, ngành chuyên môn giải trình chính sách mạch lạc.

Rất nhiều chính sách được ban hành, nhưng không được giải trình, chưa thể giải trình với công chúng thì hãy giải trình với Quốc hội. Quốc hội phải bảo đảm trách nhiệm giải trình, giải trình được mới minh bạch.

Cũng với nội dung trên, Thanh niên online cũng chia sẻ từ TS Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, cũng chỉ ra 3 vấn đề chưa được thời gian qua. Đó là chính sách thiếu nhất quán, giật cục thay đổi nhanh khiến DN bị động. Khi sửa thì quá chậm gây tăng chi phí, tạo ra đứt gãy chuỗi cung ứng ở nhiều thời điểm.

Thứ hai, cải cách và cải thiện thể chế bị chậm lại; cơ cấu lại nền kinh tế cũng bị chững và cổ phần hóa chậm, trong khi nếu làm tốt cổ phần hóa, tái cơ cấu thì chúng ta sẽ có thêm 39.000 tỉ đồng. Thứ 3, thu ngân sách thiếu bền vững, thất thu do DN khó khăn, nguồn thu hoạt động giao dịch đất đai tăng nhanh, thu từ chứng khoán… khó mà ổn định.

Bàn thêm về giải pháp chuyển đổi mô hình chống dịch, TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, đề xuất Chính phủ cần tăng cường chi tiêu tài khóa nhiều hơn nữa. “Gói hỗ trợ cho phục hồi 2 năm tới thứ nhất là vượt khó, thứ 2 là bắt nhịp đà phục hồi của thế giới, và thứ 3 là nắm bắt xu hướng lớn của thế giới như tiêu dùng, lối sống và cuộc Cách mạng 4.0, năng lượng tái tạo”, ông Thành lưu ý.

Hiện nay, theo ông Thành, khó khăn lớn nhất đối với các DN (đặc biệt ở khu vực phía nam) là họ đang rất băn khoăn với mô hình, khuôn khổ chống dịch của Chính phủ để có thể chủ động quay lại sản xuất. Đối với vấn đề lao động, thực sự đang trở thành “đại sự cho cả nước mắt và lâu dài". Nhiều DN cho biết họ ít nhất phải mất 2 năm mới thu hút được lao động quay lại. Cuối cùng là vấn đề cạn kiệt dòng tiền, DN cần phải được hỗ bằng gói tài khóa, hỗ trợ lãi suất.

Về giải pháp cụ thể hơn, TS Cấn Văn Lực đại diện cho nhóm nghiên cứu của BIDV, kiến nghị Chính phủ xem xét ban hành các gói hỗ trợ tiếp theo với tổng giá trị bổ sung khoảng gần 40.000 tỉ đồng (0,62% GDP năm 2020), chưa kể giá trị các gói hỗ trợ hiện tại có thể còn gia tăng khi được điều chỉnh, gia hạn.

Gói này cần mở rộng đối tượng hỗ trợ người lao động tới tất cả lao động phi chính thức (lao động tự do) với mức trợ cấp 1 triệu đồng/người với quy mô 29.300 tỉ đồng (khoảng 29,3 triệu người, chiếm 53,7% lực lượng lao động là lao động tự do), ngoài phần hỗ trợ riêng của các địa phương theo Nghị quyết 68.

Với gói hỗ trợ tiền điện, theo ông Lực, nên mở rộng đối tượng và giảm mạnh hơn cho người dân và DN, tương đương năm 2020 (khoảng 10.900 tỉ đồng). Theo đó, EVN có thể xem xét mở rộng đối tượng được giảm, với ngân sách giảm bổ sung khoảng 7.750 tỉ đồng.

Với gói hỗ trợ viễn thông, nên thiết thực hơn để nhiều người có thể tiếp cận và được hưởng, chẳng hạn nên giảm giá cước 20 - 30% trong 3 tháng, thay vì cách hỗ trợ bằng nâng cấp hạ tầng, khuyến mại cho một số đối tượng như hiện nay.

Một giải pháp nữa, theo TS Lực, NHNN tăng cường cho vay tái cấp vốn, tiếp tục linh hoạt hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng để họ có thêm nguồn lực giảm lãi suất, cung ứng tín dụng hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Bên cạnh đó, sớm xây dựng chiến lược, kịch bản phòng, chống dịch trong điều kiện mới và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh “bình thường mới”; cần có các động lực tăng trưởng mới và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô nhằm chủ động tận dụng cơ hội phục hồi mạnh cũng như kiểm soát rủi ro.